Giá gạo Châu Á đồng loạt giảm, chênh lệch giữa các xuất xứ thu hẹp
Giá gạo Châu Á đang trong xu hướng giảm, kéo dài từ nhiều tuần nay, do nhu cầu yếu bởi cước phí vận tải quá cao.
Lần đầu tiên kể từ tháng 12/2019, gạo 5% tấm xuất khẩu của Châu Á giảm xuống dưới ngưỡng 400 USD/tấn, trong bối cảnh chênh lệch giá giữa các xuất xứ thu hẹp về mức thấp nhất kể từ tháng 4/2018, khi các nhà xuất khẩu của Thái Lan, Việt Nam và Pakistan đều hạ giá bán để cạnh tranh với gạo Ấn Độ.
Theo dữ liệu của S&P Global Platts, cách đây một tháng, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Ấn Độ vẫn còn cao hơn 400 USD/tấn, và hồi cuối tháng 3/2021 thậm chí một số xuất xứ còn trên 500 USD/tấn.

Hàng năm, giá gạo Châu Á thường giảm vào khoảng tháng 6 – 8. Năm nay, giá gạo đang giảm do nhiều lý do khác nhau. Tại Pakistan, các nhà xuất khẩu tìm cách dọn kho trước khi bước vào vụ thu hoạch, từ cuối tháng 8. Trong khi đó, cả Thái Lan và Việt Nam đều đang thu hoạch lúa trái vụ; và Ấn Độ cũng vừa kết thúc vụ lúa rabi trái vụ. Nội tệ giảm giá cũng góp phần làm giảm giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ và Thái Lan.
Năm nay, ngoài việc giá gạo đang giảm theo mùa vụ thì một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự “sụp đổ” giá gạo gần đây chính là tác động tiêu cực của COVID-19 với những khó khăn mà đại dịch gây ra cho việc vận chuyển, như thiếu container hay đứt gãy chuỗi cung ứng.
Nhiều nhà xuất khẩu gạo Châu Á gần đây cho biết nhiều khách hàng của họ biện minh cho việc không mua gạo là do cước phí vận tải chứ không phải do giá FOB.
Nhiều tháng nay, rất khó để tìm được tàu chở hàng do nhu cầu cao trong khi nguồn cung thấp. Ngay cả khi tìm được tàu chở hàng thì cũng không có gì đảm bảo người thuê sẽ được sử dụng con tàu đó. Một nhà nhập khẩu lớn ở Châu Âu cho biết tình hình vận chuyển hàng hóa hiện đang rất “kịch tính”, chủ yếu do việc vận chuyển thường xuyên không được thực hiện như hợp đồng, thậm chí có thể bị thay đổi vào phút cuối. Một nhà xuất khẩu Pakistan đã xác nhận tình huống này và cho biết rằng điều đó thật “nực cười… thậm chí vào phút cuối, họ [các công ty vận chuyển] vẫn hủy hợp đồng," dẫn tới việc đối tác phải tốn thêm nhiều chi phí bổ sung.
Một nhà xuất khẩu gạo của Ấn Độ thông tin với Platts rằng: "Nhu cầu là có, nhưng do các vấn đề về container nên rất khó để thực hiện những hợp đồng kinh doanh mới”. Trong khi đó, một nhà xuất khẩu ở Thái Lan xác nhận rằng khách hàng của họ có nhu cầu - đặc biệt là sau khi giá FOB giảm - "nhưng người mua biến mất khi được báo giá cước phí".
Một nhà xuất khẩu gạo Pakistan cho biết nhiều người mua đã hủy đơn đặt hàng mà chuyển sang sử dụng gạo dự trữ đã mua từ trước đó, bởi giá gạo trong nước dù tăng cũng không cao bằng giá gạo nhập khẩu cộng cước phí vận tải ở thời điểm hiện tại. Điều đó thể hiện ở các số liệu xuất khẩu gạo gần đây. Cục Thống kê Pakistan ước tính rằng xuất khẩu gạo trong tháng 5/2021 đã giảm 48% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi xuất khẩu năm 2021 của Thái Lan tính đến ngày 11 tháng 7 (không bao gồm gạo thơm Hom Mali) đã giảm 20% so với cùng kỳ năm ngoái, theo Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Một nhà môi giới châu Âu hôm 16/7 cho biết nếu họ phải trả giá 320 USD/tấn (FOB FCL) cho gạo tấm Myanmar chất lượng cao, cước vận chuyển đến Bắc Âu trung bình khoảng 9.000 USD/TEU. Trên cơ sở 25 tấn /TEU, tương đương với giá cước vận chuyển là 360 USD/tấn, cao hơn 13% so với giá thành của sản phẩm gạo đó.
Một thương nhân Châu Âu mới đây thông báo "không thể tìm thấy" các container ở Ấn Độ, trong khi một thương nhân khác ở Châu Âu cho biết: "rất khó (để có được container ở Thái Lan), nhưng không phải là không thể. Nếu bạn trả đúng giá."
Tại thời điểm này, giá gạo trắng FOB của các nước Châu Á không có sự khác biệt nhiều nên cước vận chuyển và tình trạng nguồn cung gạo sẵn có là những yếu tố quan trọng nhất để các nhà nhập khẩu quyết định có nên ký hợp đồng mua hay không.
Xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng sụt giảm. Theo số liệu sơ bộ của Hải quan, trong 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu gạo của cả nước giảm 14% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 3,03 triệu tấn; trong khi kim ngạch 1,65 tỷ USD (giảm 4%). Đáng chú ý, xuất khẩu trong tháng 6/2021 giảm mạnh 30,4% về lượng và giảm 28,7% về kim ngạch so với tháng 5/2021, chỉ đạt 436.140 tấn, tương đương 241,61 triệu USD.
Chỉ riêng Ấn Độ có lượng gạo xuất khẩu tăng nhờ nguồn cung dồi dào với giá rẻ hơn nhiều so với các xuất xứ khác. Theo Tổng cục Thống kê và Tình báo Thương mại, xuất khẩu gạo của Ấn Độ trong tháng 4/2021 đạt 2,02 triệu tấn, cao gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, với việc các quốc gia khác đang đua nhau hạ giá để cạnh tranh với Ấn Độ, rất có thể tốc độ xuất khẩu của Ấn Độ sẽ chững lại, trong khi các nhà xuất khẩu Thái Lan, Việt Nam và Pakistan lại bắt đầu nhận được những đơn đặt hàng mới.
Indonesia: Giá tôm chân trắng giảm
Giá tại đầm tôm chân trắng còn đầu, còn vỏ từ Indonesia giảm trong tuần 28 (từ 12-18/7/2021).
Giá tôm chân trắng cỡ 30-40 con/kg ổn định đạt lần lượt 6,83 USD/kg và 6,04 USD/kg, tôm cỡ 60 con đạt 4,92 USD/kg, tôm cỡ 80 và 100 con đạt 4,3 USD/kg và 3,73 USD/kg.
Giá tôm tại tỉnh sản xuất tôm chính của Indonesia, Đông Java ổn định ở tất cả các cỡ.
Trung Quốc: Nhu cầu thủy sản vượt xa nguồn cung
Có những dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang hạ nhiệt, tăng trưởng GDP của Trung Quốc quý 2/2021 chậm lại do đầu tư nhà nước chậm hơn và tăng trưởng tiêu dùng yếu hơn. Xuất khẩu của Trung Quốc trong quý 2/2021 tăng 20%, nhưng giá dầu và các mặt hàng nhập khẩu khác cao hơn đang làm xói mòn cán cân thương mại mạnh mẽ của Trung Quốc.
Trong khi đó, giá thủy sản trên cả nước đang tăng vọt. Theo dữ liệu do Cục Thống kê Quốc gia công bố, giá bán buôn thủy sản nước ngọt ở Trung Quốc đã tăng 20% trong nửa đầu năm 2021. Mức tăng giá cao hơn 13,1 điểm phần trăm so với mức tăng trong nửa đầu năm 2020 và đã cộng thêm 0,12 vào chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Trung Quốc. Chỉ số giá thủy sản chung đã tăng 17,2% trong 6 tháng đầu năm, do nguồn cung bị thắt chặt.
Giá thịt lợn Trung Quốc giảm mạnh, vốn tăng vọt vào năm ngoái, đã làm giảm tác động của giá thủy sản tăng vọt lên yếu tố thực phẩm của CPI, nhưng Richard (Ruiqing) Yao, chuyên gia thủy sảnTrung Quốc, cho biết, các nhà sản xuất trong nước và các nhà nhập khẩu đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu.
Trong khi thủy sản đang trở nên phổ biến hơn với người tiêu dùng như một lựa chọn lành mạnh, thì lại có một số yếu tố đang hạn chế sản xuất bao gồm các chính sách bảo vệ môi trường mới, sự gián đoạn do COVID, thời tiết khắc nghiệt ở các khu vực trọng điểm, và tình trạng thiếu lao động. Cùng với việc chi phí thức ăn chăn nuôi tăng, những yếu tố này đã đẩy giá thủy sản tăng cao, trong khi nhu cầu của người tiêu dùng vẫn mạnh mẽ.
Tình hình giá cả tăng thêm do nhập khẩu giảm vì COVID và lệnh cấm đánh bắt cá trong 3 tháng ở Biển Bột Hải, Hoàng Hải và Biển Hoa Đông bắt đầu từ ngày 1/5. Hải quan Trung Quốc đã thiết lập một chế độ an toàn thực phẩm nghiêm ngặt để ngăn chặn COVID-19 xâm nhập vào nước này thông qua thực phẩm nhập khẩu, nhưng việc kiểm tra đã gây tắc nghẽn và cản trở NK thủy sản vào thị trường Trung Quốc.
Ngoài ra, chi phí vận chuyển hàng hóa cao ngất ngưởng, sự chậm trễ tại các cảng, khan hiếm container lạnh và thiếu tài xế xe tải, đang gây áp lực lên chi phí trên thị trường người bán. Do đó, ngay cả khi giá cao hơn do nhu cầu ngày càng tăng, nhưng các nhà nhập khẩu Trung Quốc cũng khó tìm được nguồn cung do nhu cầu ở các thị trường tiêu dùng khác cũng cao.
Theo Paul Farrah, người đứng đầu Dieppe, New Brunswick, nhà cung cấp thủy sản đông lạnh Partner Seafood có trụ sở tại Canada, nhu cầu ở Mỹ cao hơn đồng nghĩa với nguồn cung cấp ít hơn cho các khách hàng ở Trung Quốc - đặc biệt là tôm hùm, cua và tôm mũ ni. Mike Hutt, giám đốc điều hành của Virginia Marine Products Board, cơ quan điều phối thương mại thủy sản bang Virginia của Hoa Kỳ, cho biết người mua Trung Quốc ngày càng tìm kiếm cua xanh, thịt ốc xà cừ và hàu sống từ các nhà cung cấp của bang ông. Nhưng họ đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu đó, vì lĩnh vực dịch vụ thực phẩm và bán lẻ nội địa của Hoa Kỳ đang bùng nổ cùng lúc các nhà chế biến thủy sản của bang đang gặp khó khăn về nhân sự. Hutt cho biết văn phòng của ông dự định tái hợp tác với các thị trường Trung Quốc vào năm 2022 bằng cách đi đến các hội chợ thương mại, nhưng có vẻ như ngành công nghiệp hiện đang bận rộn với các thị trường lân cận hơn.
Anthony Wan, người đứng đầu Gfresh, một nhà phân phối hàng nhập khẩu trực tuyến có trụ sở tại Thượng Hải, cho biết mùa hè năm nay là một "mùa đặc biệt mạnh" về doanh số bán hàng cho nhà phân phối thủy sản trực tuyến Trung Quốc GFresh, nhưng nguồn cung khó khăn do việc kiểm tra chặt chẽ các cảng cá phía nam Trung Quốc.
Theo Wan, giá cá hồi đã phục hồi kể từ khi bùng phát COVID, hiện tại tăng lên mức trung bình là 12,00 USD (10 EUR) / kg từ mức thấp là 6,00 USD (5,04 EUR) / kg. Giá tôm Ecuador đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, lên mức trung bình 8,00 USD (6,72 EUR) / kg, và nguồn cung cua Dungeness thấp hơn đang khiến giá của loài này tăng lên đối với người mua Trung Quốc. Nhu cầu về tôm hùm sống rất mạnh, với giá tôm hùm Bắc Mỹ “luôn ở mức cao” - và điều đó có nghĩa là tôm hùm đông lạnh từ Úc hiện có thể vào Trung Quốc bằng đường hàng không, sau nhiều tháng tôm hùm Úc không xuất được khỏi nước này.
Tuy nhiên, các vấn đề về nguồn cung và những khó khăn về logistic, chẳng hạn như nút thắt cổ chai xảy ra gần đây ở tỉnh Quảng Đông khi các nhà lãnh đạo của tỉnh này ra lệnh ngừng nhận thủy sản nhập khẩu do các vấn đề về công suất xếp hàng, tiếp tục “sói mòn lợi nhuận của các nhà xuất khẩu”, Wan nói.
Theo Hansen Lee, chủ tịch của Coland Holdings Co., một công ty có trụ sở tại Hồng Kông tham gia sản xuất và phân phối bột cá, thời kỳ tiêu thụ thủy sản cao điểm của Trung Quốc cũng diễn ra vào cuối năm nay, do điều kiện thời tiết xấu làm chậm trễ nguồn cung và thương mại dầu cá và thức ăn thủy sản. Lee cho biết nhu cầu về bột cá - phần lớn để cung cấp cho lĩnh vực thức ăn chăn nuôi - đã tăng lên ngay cả khi nguồn cung bị gián đoạn vì COVID. Do đó, giá đầu ra nuôi trồng thủy sản của Trung Quốc cao hơn đồng thời nhu cầu đầu vào như thức ăn và thuốc tăng cao.
PTN - Tổng hợp